PHƯƠNG PHÁP ĐO CHIẾT SUẤT ĐÁ QUÝ
Kdv 4 tháng trước

PHƯƠNG PHÁP ĐO CHIẾT SUẤT ĐÁ QUÝ

Cùng với tỷ trọng, chiết suất là thông số góp phần quan trọng trong việc xác định chính xác tên đá quý.

1. Bản chất phương pháp

Khi một tia sáng được chiếu vào một viên đá quý, tốc độ truyền ánh sáng trong đó sẽ giảm xuống ở mức độ nào đó tuỳ thuộc vào các đặc tính quang học – tinh thể của viên đá.
Đại lượng phản ánh tính chất quang học đó của đá quý gọi là chiết suất n:

n = Vo/V = Sini/Sinr

Trong đó:
Vo – vận tốc ánh sáng trong chân không;
V – vận tốc ánh sáng trong viên đá;
i – góc tới;
r – góc khúc xạ.
Đo chiết suất n để kiểm tra đá quý là bản chất của phương pháp này.

2. Thiết bị thử

Phương pháp đo chiết suất được sử dụng chủ yếu cho đá quý là phương pháp khúc xạ và thiết bị được dùng là khúc xạ kế (refractometer).

Hình 1 – Sơ đồ nguyên lý của máy khúc xạ kế

Thiết bị này dựa trên sự tương quan giữa giá trị chiết suất n và góc phản xạ toàn phần của viên đá. Sơ đồ nguyên lý của một khúc xạ kế dùng cho đá quý trình bày ở hình 1.

Những yêu cầu cơ bản của một khúc xạ kế dùng cho đá quý là:

  • Phải là loại dùng để đo các chất rắn;
  • Có dải đo chiết suất đủ rộng (thường từ 1,3 đến 1,8) để đo được đa số các loại đá quý;
  • Có nguồn sáng natri với bước sóng chuẩn 5893Ao;
  • Có kính lọc phân cực để đo chiết suất những chất dị hướng quang học;
  • Có dung dịch có chiết suất trung gian (1,81) giữa bán cầu (bán trụ) thủy tinh và viên đá để tạo ra tiếp xúc quang học giữa chúng (dung dịch đệm).

3. Mẫu thử

Mẫu để đo chiết suất phải có ít nhất một mặt được mài phẳng và đánh bóng theo đúng quy định. Đối với mẫu dị hướng mặt phẳng này phải song song với trục quang học của mẫu.

Chuẩn máy bằng các mẫu chuẩn chiết suất trước khi đo. Rửa và lau sạch mặt của bán cầu (bán trụ) thủy tinh và mặt mẫu. Các mặt phẳng này không cho phép có các vết xước, nứt rỗ.

Xem thêm: PHƯƠNG PHÁP ĐO PHỔ HẤP THỤ ĐÁ QUÝ

4. Tiến hành thử

Mở nguồn sáng natri cho đến khi hoạt động ổn định. Nhỏ một giọt dung dịch đệm lên mặt bán cầu (bán trụ) thủy tinh của khúc xạ kế: đường kính giọt dung dịch khi đặt viên đá lên không lớn hơn 1 mm đến 2 mm.

Dung dịch đệm dùng cho khúc xạ kế để đo đá quý thường là iođua mêtylen (CH2I2) được bão hoà lưu huỳnh.

Đặt nhẹ mặt mài bóng của viên đá lên giọt dung dịch đệm, di nhẹ qua lại sao cho không còn bọt khí ở mặt tiếp xúc quang học. Điều chỉnh nguồn sáng sao cho thang đo rõ nét nhất.

Giá trị chiết suất n đọc theo giá trị tương ứng với ranh giới giữa trường tối (ở trên) và trường sáng (ở dưới).

Lắp kính phân cực lên thị kính và xoay 360o. Nếu ranh giới giữa trường sáng và trường tối không thay đổi thì chỉ có một giá trị chiết suất (vật đẳng hướng).

Nếu ranh giới này thay đổi trong một khoảng độ nào đó thì ghi giá trị nmax và nmin (vật dị hướng). Lấy mẫu khỏi bán cầu thủy tinh và lau sạch dung dịch ở cả bán cầu và mặt viên đá quý.

5. Xử lý kết quả

Đối với vật đẳng hướng cần đo 2 đến 3 lần và lấy giá trị trung bình cộng.

Đối với vật dị hướng, nếu không có mặt phẳng song song với trục quang, cần đo chiết suất ở vài mặt khác nhau, mỗi mặt 2 đến 3 lần rồi lấy các giá trị nmax và nmin.

Hình 2: Khúc xạ kế tại VGVLab

Theo TCVN 5857:1994

7 lượt xem | 0 Bình luận
Hiện tại tác giả vẫn chưa cập nhật chia sẻ của mình